Làm thế nào Nô-ê và gia đình nhỏ của ông tìm và bắt được các loài động vật? Sau đó làm thế nào họ vận chuyển và đặt tất cả chúng vào trong Tàu? Vì, chẳng phải có hàng trăm triệu các loài thú tồn tại trên đất sao?” Hay, bạn có thể nghe câu hỏi là, Làm thế nào Nô-ê có thể có thể di chuyển cả chặng đường xuống Australia để bắt hai con gấu koala, rồi băng qua Bắc Mỹ để bắt hai con gấu xám, rồi sau đó đi xuống Antartica băng giá để tóm hai con chim cánh cụt?”
Đây là sản phẩm của World Video Bible School
Tác giả: Branyon May
Dịch giả: Quý Hoàng
Nguyện Đức Chúa Trời được vinh hiển!
Khi xem xét đến Sự thật về Tàu Nô-ê, bạn chắc nghe nói đến một vài sự hoài nghi như, “Làm thế nào Nô-ê và gia đình nhỏ của ông tìm và bắt được các loài động vật? Sau đó làm thế nào họ vận chuyển và đặt tất cả chúng vào trong Tàu? Vì, chẳng phải có hàng trăm triệu các loài thú tồn tại trên đất sao?” Hay, bạn có thể nghe câu hỏi là, Làm thế nào Nô-ê có thể có thể di chuyển cả chặng đường xuống Australia để bắt hai con gấu koala, rồi băng qua Bắc Mỹ để bắt hai con gấu xám, rồi sau đó đi xuống Antartica băng giá để tóm hai con chim cánh cụt?” Mặc dù các câu hỏi này là phổ biến, thì đây là vấn đề… viễn cảnh được miêu tả hoàn toàn sai và nó được căn cứ trong việc miêu tả sai về cả các ghi chép về khoa học và Kinh Thánh.
Đối với một số người, thì cách trình bày về viễn cảnh này là một nỗ lực để gieo sự hài hước cho tài liệu Kinh Thánh bằng việc đặt gánh nặng khổng lồ lên Nô-ê để đi chu du khắp thế gian, để bắt và chuyển hàng triệu hàng triệu con thú trở về Tàu.
Trong nghiên cứu về Sự Thật của Tàu và các con thú của nó, chúng ta trước hết phải đặt sự hiểu biết của chúng ta vào các tài liệu của Kinh Thánh. “Về các loài sinh vật, ngươi hãy dẫn xuống tàu mỗi loài một cặp, có đực có cái, có trống có mái, hầu cho ở cùng ngươi đặng giữ tròn sự sống, chim tùy theo loài, súc vật tùy theo loài, côn trùng tùy theo loài, mỗi thứ hai con sẽ đến cùng người để giữ tròn sự sống cho.” “Mỗi thứ hai con sẽ đến cùng người.”
Ý tưởng sai lầm đầu tiên trong bối cảnh đầy hoài nghi, đó là Nô-ê đã không phải lo lắng về việc đi đâu, loài vật gì để bắt, làm sao để xác định đực và cái của mỗi loài, và làm sao để chuyển từng con trở về Tàu. Việc di chuyển được thực hiện bởi các loài thú dưới sự chỉ dẫn của Đấng Tạo Hóa của chúng. Dù cho địa lý của các lục địa trên Trái Đất là gì đi nữa thì đó là trước Nước Lụt, và với một sự kiện biến động lớn như thế thì địa hình đã khác biệt, Nô-ê đã không cần phải di chuyển tới một khu vực xa xôi phía Nam để mang các con Kangaroo về, hay đến một đất nước xa xôi ở phía Đông để mang các con Panda về, hay ông không cần di chuyển qua các vùng hoang dã phía Bắc để mang về một bầy các loại chim khác nhau. Hơn thế, ông phải chuẩn bị Tàu làm chỗ nương thân cho chúng, các ngăn bên trong làm chỗ ở cho chúng, và các kho thực phẩm để sinh tồn. “Ngươi hãy đóng một chiếc tàu bằng cây gô-phe, đóng có từng phòng, rồi trét chai bề trong cùng bề ngoài.” “Lại, ngươi hãy lấy các thứ đồ ăn đem theo, đặng để dành làm lương thực cho ngươi và các loài đó.”
Ý tưởng sai lầm thứ hai trong tranh cãi hoài nghi liên quan đến cách miêu tả sai lầm khủng khiếp của số lượng con thú mà Nô-ê cần phải mang theo. Trong khi một vài người hoài nghi nói là có hàng trăm triệu chủng loài đã tồn tại, thì những người khác đi xa đến mức nói rằng các tài liệu ghi chép hóa thạch là “một nửa tỉ loài hoặc hơn.” Các con số này hoàn toàn sai và bày tỏ một cách miêu tả sai lầm về dữ liệu khoa học có cơ sở và một sự hiểu sai lầm về hệ thống thời gian theo Kinh Thánh. Lịch sử Kinh Thánh cho đến đời của Nô-ê không phải trải qua hàng trăm ngàn năm hay thậm chí hàng triệu năm về trước, mà chỉ một vài ngăn năm thôi. và các nghiên cứu khoa học về đời sống động vật không hề ghi chép hàng trăm triệu chủng loài động vật đang tồn tại hay tuyệt chủng. Các phép loại suy lung tung này đối với số lượng thú vật trên Tàu Nô-ê được rút ra từ các giả định của thuyết tiến hóa theo Darwin và yếu tố cần thiết, vẫn còn mất tích, của hàng triệu các chủng loài động vật chuyển tiếp. Thậm chí các con số tưởng như thấp hơn xếp từ 3 đến 10 triệu loài về cơ bản được thổi phồng lên so với các loài được quan sát và liệt kê hiện nay, mà con số chỉ từ 1 đến 2 triệu. Nhưng vì nhiều lý do mà chúng ta sẽ thảo luận về con số của các loài vật khác nhau ở trên Tàu không được đến hàng trăm ngàn chứ không nói đến hàng triệu.
Nhưng hãy dành ít phút để Kinh Thánh trình bày các ranh giới cho buổi thảo luận của chúng ta liên quan đến các loài vật trên Tàu. Trước nước lụt, Đức Chúa Trời truyền cho Nô-ê, rất ngắn gọn và rõ ràng, ý định của kế hoạch của Ngài để làm một trận lụt toàn cầu trên trái đất. Và, rằng Con Tàu sẽ là một con thuyền rỗng của sự cứu rỗi cho cả gia đình của Nô-ê và các đại diện của thế giới loài vật. “Còn ta đây, ta sẽ dẫn nước lụt khắp trên mặt đất, đặng tuyệt diệt các xác thịt có sanh khí ở dưới đất, hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ chết hết.” Kế hoạch của Đức Chúa trời cho trận nước lụt là để hủy diệt sự hung ác khắp nơi mà đã tàn phá loài người, và trong việc làm như vậy cũng có “tất cả các loài xác thịt mà có sanh khi trong nó,” như là các loài chim, thú và các loài bò sát. Vì vậy các loài thú mà đến cùng Nô-ê để lên Tàu là các cặp đực và cái tiêu biểu của chỉ các loại mà sẽ diệt vong trong nước lụt thôi. “Lại cũng trong một ngày đó, Nô-ê với vợ, ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết cùng ba dâu mình đồng vào tàu. Họ và các loài, thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng trên mặt đất tùy theo loại, chim tùy theo loại, và hết thảy vật nào có cánh đều từng cặp theo Nô-ê vào tàu, nghĩa là mọi xác thịt nào có sanh khí.” Một khi thời điểm đã định đến, các con thú của từng loài đặc biệt sẽ vào Tàu từng đôi một để Nô-ê nhanh chóng sắp xếp chúng vào trong vị trí của mình, sau đó dẫn gia đình của ông vào trong. Một khi các thành viên phù hợp của tất cả các xác thịt với sanh khí đã lên tàu, thì Đức Chúa Trời đóng cánh cửa duy nhất bên cạnh Tàu và sự kiện biến động lớn đã xảy ra. “Nước dâng lên mười lăm thước cao hơn, mấy ngọn núi đều ngập. Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết ngột, nào chim, nào súc vật, nào thú rừng, nào côn trùng và mọi người. Các vật có sanh khí trong lỗ mũi, các vật ở trên đất liền đều chết hết.” Sau 40 ngày mưa như thác đổ và các nguồn của vực lớn nổ ra, thì nước lụt bao phủ khắp các ngọn núi trên toàn trái đất, và kế hoạch và sự chuẩn bị của Đức Chúa Trời cho sinh tồn của sự sống được nhận biết một cách đầy đủ.
Khi đọc qua tài liệu Kinh Thánh, không chỉ là những sự miêu tả chung về các loài vật trên đất được nêu ra: các loài chim, gia súc, thú vật và các loài bò sát, mà ba lần Kinh Thánh còn nói với chúng ta rằng các loài thú mà dù là được cứu hay bị hủy diệt đều có “sanh khí.” Vì vậy, khi chúng ta quan sát đến các miêu tả hiện nay về các vương quốc của sự sống, thì tài liệu của Kinh Thánh chỉ miêu tả về sự sống trong vương quốc của động vật. Vì vậy, Nô-ê không phải mang theo các đại diện từ vương quốc của thực vật, hay nấm, hay các sinh vật đơn bào hay các loại khác nhau của vi khuẩn. Và mặc các trang phê bình hoài nghi, thì Nô-ê đã không mang theo bất cứ loài dưới nước nào: không có tảo, loài hàu, loài trai… không có các loại cá, cá mập, hay thậm chí các loài động vật có vú thở không khí như cá heo hay cá voi.
Theo bảng liệt kê của sự sống, là cơ sở dữ liệu quốc tế của phép phân loại, thì chỉ có hơn 1 triệu chủng loài được biết đến của “sự sống” trong vương quốc của động vật (đv). Tuy nhiên, về ngành đông đảo trong giới đv, phần lớn là các loài dưới nước, như là ngành sứa, bọt biển, ĐV da gai, và ĐV dạng rêu, hay chúng được bao gồm các loài vật mà không phù hợp với các miêu tả của Kinh Thánh, như là ĐV thân mềm,lớp giun đốt, và lớp sán lá. Và thực tế, hơn 85% của tất cả các chủng loại đv được tìm thấy trong duy nhất ngành chân đốt. mà bao gồm hơn 700,000 chủng loài được liệt kê của côn trùng. Và mặc dù chúng ta có thể nghĩ đến các loại côn trùng và sâu bọ như là “loài bò sát” thì chúng không được xem là hành khách trên Tàu bởi vì chúng vừa không phù hợp với định nghĩa của từ Hê-bơ-rơ được dịch thành “loài bò sát.” Chúng vừa không phù hợp với miêu tả của việc có “sanh khí trong lỗ mũi của chúng.”
Ngành sinh vật mà chứa đựng các lớp chính của đv là phù Hợp với các chỉ định rõ ràng mà Kinh Thánh đòi hỏi là lớp đv có dây sống. Nhưng thậm chí trong ngành đv duy nhất này của xấp xỉ 66,000 chủng loài, đại khái phân nửa thuộc về lớp sống dưới nước của giống cá nhiều xương, mà có khoảng 31,000 chủng loại trong bốn lớp chính phù hợp với miêu tả của Kinh Thánh: Bốn lớp chính này là loài đv có vú với hơn 4800 loài, các loài chim với hơn 9900 loài, loài lưỡng cư với hơn 6400 loài, và loài bò sát với gần 9800 loài. Bốn lớp này đại diện cho các loài đv trên đất, thở không khí được biết đến và được nghiên cứu rõ nhất.
Có một nhóm sinh vật được biết rõ hơn nữa mà chúng ta không thể thảo luận, loài khủng long. Nhóm đv đã tuyệt chủng này có thể đôi khi bị bỏ sót bởi sự hỗn loạn mà cách giải thích theo thuyết tiến hóa áp dụng. Như một phần của sự tạo dựng của Đức Chúa Trời, loài khủng long tuyệt đối là các thành viên thực sự của thế giới ĐV. Mặc dù chúng ta không biết như thế nào hay khi nào mà mỗi loài khủng long bị tuyệt chủng, nhưng chúng ta biết rằng dù là loại nào có tồn tại vào thời Nô-ê đi nữa, thì sẽ là hành khách trên Tàu, nếu chúng phù hợp với các đặc điểm được đòi hỏi của Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hãy nói đến hai quan điểm sai lầm chính.
+Đầu tiên, chúng ta thường bị mê hoặc với các loài khủng long to lớn nhất sừng sững trên chúng ta tại các bảo tàng. The Brachiosaurus, Argentinosaurus, Tyrannosaurus Rex, Stegosaurus. Nhưng các vật mẫu to lớn này chỉ tượng trưng cho một phân số nhỏ của loài khủng long. Đại đa số thực ra khá nhỏ, và kích thước trung bình của tất cả loài khủng long là khoảng giữa một con cừu và một con bò. Và hơn thế, kích thước trung bình này là đối với một con khủng long trưởng thành. Chúng ta không được kể trong Kinh Thánh rằng các loài thú phải là trưởng thành, vì vậy Đức Chúa Trời có thể có các loài thú và các loài khủng long trẻ hơn đi lên Tàu của Nô-ê.
+Quan điểm sai lầm thứ hai về các loài khủng long đó là có hàng triệu loài khác nhau. Như chúng ta đã thảo luận về các con số hợp lý của các loài ĐV, thì số lượng của các loài khủng long được đặt tên ít hơn 1000. Vì vậy chúng ta có thể dễ dàng thêm vào trí tưởng tượng của chúng ta 1000 loài khủng long kích thước cỡ con cừu. Cho đến nay chúng ta đã thảo luận về các con số tiềm năng của các loài ĐV bằng việc đi theo con số thống kê đặc biệt của phép phân loại.
Định nghĩa hiện nay của thuật ngữ các chủng loài có thể là một thảo luận gây tranh cãi trong vòng các nhà khoa học, nhưng định nghĩa phổ biến nhất trình bày rằng một chủng loài là: “một nhóm của các cá thể mà thực sự hay có khả năng giao phối tự nhiên.” Theo nghĩa này, một loài là tập hợp gen lớn nhất có thể tồn tại dưới các điều kiện tự nhiên. Dù khái niệm này, theo hình thức phổ biến của nó, chỉ có khoảng vài trăm năm từ thời của Carl Linnaeus, và tượng trưng cho cách tiếp cận của con người ngày nay đến việc phân loại và nghiên cứu sự sống trên trái đất.
Mặc dù các chủng loại được định để đại diện cho tập hợp lớn nhất của các sinh vật giao phối, thì có rất nhiều ngoại lệ được biết đến cho định nghĩa này. Thuật ngữ “lai” được sử dụng để định nghĩa một dòng giống từ cha mẹ của các loài khác biệt. Và thực sự có ba mức độ khác nhau của sự lai giống: “Lai giống khác loài” xảy ra giữa các loài khác nhau mà ở trong cùng giống. Các ví dụ của loài lai này bao gồm các giống chó mà phân biệt các loại của giống chó được thuần hóa, chó sói đồng cỏ, chó sói, và chó rừng được biết đến để lai giống. Có các con lai tương tự trong các loài gấu, bao gồm các con lai gấu Xám và Bắc Cực, được nhìn thấy cả ở nơi hoang dã và bị nuôi nhốt. Các ví dụ bổ sung của các con lai khác loài có rất nhiều giữa các loài của mèo, các loài ngỗng, các loài chim gõ kiến, mòng biển, chim sẻ, gà, cá sấu, và rất rất nhiều loại khác. Mức độ thứ hai của các con lai mà chúng ta nhìn thấy là “các con lai khác chi” mà xảy ra không chỉ giữa các loài khác nhau mà còn từ các chi khác nhau. Các ví dụ của dạng con lai này bao gồm các thành viên của họ giống bò, đặc biệt việc lai giống giữa giống bò mà bao gồm bò Tây Tạng và bò nuôi với các giống bò rừng Bison, mà bao gồm bò Byson Mỹ và Châu Âu. Các con lai Bò Nuôi-Bison được nhìn thấy trong tự nhiên từ giữa những năm 1700 ở nước Mỹ và các con lai cố ý, như là Beefalo, đã tồn tại từ giữa những năm 1800. Ví dụ khác về con lai khác chi bao gồm các thành viên khác nhau của họ vịt, đặc biệt là sự lai giống giữa các loài duy nhất gồm vịt trời, Baldpate, vịt lặn Mỹ, và vịt rừng. Các ví dụ khác của dạng này bao gồm các thành viên của chim ruồi, chim chích, chim nhạn, và giống họ mèo như mèo rừng hoang mạc, và mèo rừng Châu Phi. Mặc dù hiếm, nhưng cấp độ cuối cùng của các con lai là “con lai khác họ” mà xảy ra giữa các chủng loài khác nhau mà không chỉ khác chi, mà còn khác các họ phân loại. Các ví dụ của dạng con lai này tồn tại giữa các họ gà Nhật và con công, giữa các họ gà lôi và gà gô, giữa các họ của vịt và ngỗng, và giữa các họ của chim sẻ và chim họ sẻ. Khía cạnh quan trọng để nhận biết, liên quan đến tất cả các con lai này, đó là mặc dù các nhà khoa học có thể liệt kê các loài thú thành các loài khác biệt, mà theo nhiều cách có thể đánh giá được, thì sự phân loại vẫn tượng trưng chỉ cho một ranh giới lý thuyết mà con người đã định, đặc biệt là khi nó áp dụng cho việc phối giống có tiềm năng.
Điều có ý nghĩa cho thảo luận của chúng ta về các loài thú trên Tàu, đó là số lượng của các loài được định rõ mà chúng ta đã nhắc đến, thực sự là vượt quá các giới hạn từ các loài đông đảo mà có thể được tượng trưng bởi một cặp phổ biến duy nhất, hơn là một cặp từ mỗi loài. Sự phân biệt này thừa nhận rằng cách sử dụng của Kinh Thánh của cụm từ “tùy theo loại” không bị giới hạn cho các loài hiện nay của chúng ta và trong nhiều trường hợp thì rõ ràng là tương đương với một cấp độ phân loại cao hơn giống như giống hay họ. Cho thảo luận của chúng ta, mặc dù chúng ta sẽ đơn giản sử dụng các cách tính giống loài như một đánh giá cao của tổng số các loài thú trên Tàu. Để bổ sung thêm vào hai con phổ biến của mỗi loại, Đức Chúa Trời cho biết chi tiết thêm rằng loài đó là từ các loại thú tinh sạch mà Nô-ê sẽ mang lấy 7 cặp trong số chúng lên Tàu. Mặc dù sự nhận dạng thêm về sự tinh sạch trái ngược với sự không tinh sạch không được cho biết trong mạch văn của ghi chép về nước lụt, luật pháp của Môi-se có những thảo luận dài về các phẩm chất của các loại thú tinh sạch. Sử dụng chúng như một chỉ dẫn, thì con số của các loại thú tinh sạch khá hạn chế, vì chúng ta không dễ dàng giải thích cho các loài thú tinh sạch tăng thêm bởi việc đơn giản làm tròn các con số của chúng ta lên. Vì vậy nói chung đây là con số tổng của chúng ta về các loài thú riêng lẻ: 12,000 ĐV có vú; 20,000 con chim; 20,000 ĐV bò sát; and 13,000 ĐV lưỡng cư.
Trước khi sắp xếp 65,000 cá thể tạo dựng này lên Tàu, chúng ta cần nói đến hai vấn đề cuối cùng nhưng mấu chốt. Trước hết, để giải thích một cách thích hợp cho tính đa dạng của các loại và kích thước động vật, chúng ta cần dùng một kích thước ĐV trung bình hợp lý hay đại diện chung cho mỗi loài. Điều này có thể được thực hiện khá dễ, sử dụng các kết quả từ một vài nghiên cứu khoa học về kích thước động vật. Nếu chúng ta nhìn đến các loài ĐV có vú, chúng ta có thể nghĩ về các sinh vật to lớn như voi, hà mã, hay ngựa, nhưng các nghiên cứu sinh học tìm thấy rằng khối lượng phổ biến nhất của một đv có vú trưởng thành là ít hơn 4.5 kg, mà nghe có vẻ nhỏ bé trừ khi chúng ta xem xét đến việc gần 40% của tất cả các loài đv có vú thuộc về loài gặm nhấm. Một điểm quan trọng để nhắc đến ở đây, đó là không có yêu cầu nào cho việc mang con già nhất hay lớn nhất, hay thậm chí là phải mang các con trưởng thành, các con trẻ hay còn non là thích hợp trong hầu hết các trường hợp. Tương tự cho các loài ĐV lưỡng cư, với gần 85% tất cả các loài là thuộc loại ếch và cóc, khối lượng con trưởng thành phổ biến nhất xấp xỉ 250g là hợp lý. Cũng vậy, chỉ có một vài loài bò sát to lớn giống như rồng Komodo hay cá sấu, vì vậy khối lượng phổ biến nhất cũng gần 250g. Và cuối cùng là cho các loài chim, khối lượng phổ biến nhất của chúng ít hơn 100g. Điều này có nghĩa là vì sự thuận tiện, chúng ta sẽ làm tròn tất cả các cá thể đv có vú trên Tàu thành kích thước của một con cừu trẻ, được đánh giá cao nhất là ít hơn kích thước 5kg. Và, cho tất cả số lượng của các loài chim, lưỡng cư, và bò sát, chúng ta có thể làm tròn chúng thành kích thước của một con gà cỡ vừa, đó lại là một đánh giá quá cao nữa.
Câu hỏi mấu chốt thứ hai để xem xét đó là, điều gì là cần thiết cho việc sắp xếp thú vật? Các loài thú được sắp xếp chật chội như thế nào? Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Nô-ê phải làm những cái ngăn cho các con thú và chuẩn bị các kho thực phẩm, nhưng các kích thước chính xác cho các ngăn, trại, bãi quây hay các chuồng khác nhau không được cho biết. Vì vậy khi đo các yêu cầu không gian cần thiết cho các loài thú trên Tàu, thì có hai phép loại suy thời nay mà chúng ta sẽ sử dụng: Cách vận chuyển đv hiện nay và chỗ nuôi nhốt hiện nay hay các tiêu chuẩn của chuồng nuôi. Rất quan trọng để trước tiên chú ý rằng không có so sánh nào trong hai cái này thực sự phù hợp với tình trạng của Con Tàu. Con Tàu không phải là một chuyến đi ngắn từ điểm A đến điểm B, giống như vận chuyển thú nuôi từ ngoài đồng đến chợ. Con Tàu cũng không phải là một môi trường lâu dài như sở thú hay viện nghiên cứu. Con Tàu là một con thuyền rỗng để sinh tồn, mà mang theo món hàng quý báu ở trên nước lụt trong một khoảng thời gian giới hạn. Vậy nhìn vào các tiêu chuẩn thời nay cho cả việc vận chuyển và nuôi nhốt thì chỉ cung cấp một ranh giới trên và dưới chính xác cho không gian được yêu cầu. Vậy các loài thú sẽ chiếm bao nhiêu không gian? Như chúng ta đã nhìn thấy, Con Tàu là một con thuyền rộng lớn, với tổng cộng hơn 10,000 m2 của sàn tàu. Trong thuật ngữ liên quan đến việc vận chuyển, kích thước của Tàu tương đương với thể tích của 527 toa chở hàng đường sắt theo tiêu chuẩn. Khi chúng ta xem xét việc vận chuyển của các loài thú, các mật độ được khuyến cáo cho việc di chuyển không hề thay đổi từ khoảng những năm 1920 trong công nghiệp đường sắt cho đến công nghiệp xe tải của thời nay. Sử dụng sức chứa được khuyến cáo đã công bố, thì một toa chở hàng hai sàn kép thông thường có thể vận chuyển 240 con cừu cỡ vừa. Nếu chúng ta giả sử 12000 cá thể đv có vú được tượng trưng bằng con cừu, thì tất cả chúng sẽ vừa trong 50 tàu chở hàng. Đối với các loài thú nhỏ hơn, một toa chở hàng thú nuôi mà chứa nhiều tầng của các lồng chồng lên nhau có thể mang được xấp xỉ 3000 con gà cỡ vừa. Nếu chúng ta giả sử tổng số kết hợp của 53,000 cá thể chim, đv lưỡng cư và bò sát, thì tất cả chúng chiếm ít hơn 18 toa chở hàng. Vậy, sử dụng các cỡ cân đối và con số của các loài được biết đến và các tiêu chuẩn vận chuyển hiện nay, thì các loài thú của Con Tàu sẽ chỉ chiếm 13% tổng số thể tích hay 68 toa chở hàng, để lại 87% hay 459 toa hàng không thể tin được cho thức ăn, nước và không gian sống thêm vào. Bây giờ chúng ta nhận biết rằng các phần trăm này được dựa trên những sự sắp xếp ngắn hạn tương đối được tìm thấy trong ngành đường sắt hay xe tải, nhưng chúng cũng khớp với nhiều ngành vận tải thú nuôi đường biển mà vận chuyển thú nuôi băng qua các đại dương lớn từ Úc cho đến Trung Đông hay từ Nam Mỹ đến Châu Âu. Tuy nhiên đối với các tiêu chuẩn lâu dài của chuồng nuôi thú vật, thì chúng ta có thể dùng công việc của giáo sư Grandin Temple hay các nhà chuyên môn khoa học đv khác cho những lời giới thiệu về khoa nuôi thú trong các tài liệu nghiên cứu: Sử dụng các cách phân chia không gian sàn nhà đã được khuyên, một con cừu cỡ vừa nên có khoảng 0.5 m2 không gian, vậy 12,000 đv có vú sẽ cần khoảng 6000 m2 53,000 các loài chim, lưỡng cư và bò sát còn lại thì chúng ta tính gần bằng kích thước một con gà mà sẽ chiếm 2500 m2 với cách phân chia 0.05 m2 đã được định. Các con số này kết quả thành gần 85% của không gian sàn Tàu được sử dụng cho các loài thú. Với mỗi sàn tàu có chiều cao khoảng 4-5 mét, các chuồng chồng lên cho các loài chim, lưỡng cư, và bò sát và nhiều đv có túi nhỏ hơn sẽ được xoay sở dễ dàng, và sẽ giảm đáng kể không gian sàn tàu tổng thể được cần đến, và giúp cho việc chăm sóc cho các loài thú có hiệu quả hơn. Nếu như các lồng và chuồng cho ít nhất là các loài chim, đv lưỡng cư và bò sát mà được chồng lên chỉ hai tầng, thì không gian sàn tàu được cần đến sẽ giảm xuống mức 1200m2, đó là một con số khá chắc. Vậy, việc sử dụng tiêu chuẩn nuôi nhốt thú thời nay, các loài thú của tàu sẽ chiếm khoảng 70-85% tổng số không gian sàn tàu, mà rộng khoảng 15-18 sân bóng rổ. Và sẽ dành 15% đến 30% cho thực phẩm, nước và những tiện nghi sinh hoạt, hay trong khoảng 3 đến 6 sân bóng rổ. Dĩ nhiên thậm chí với mức thấp nhất của 15% cho kho chứa và sinh hoạt, sẽ có nghĩa là 15% thể tích Tàu, vì các kho thực phẩm có thể dễ dàng được chồng lên thành các thùng thóc, thùng rượu, tủ, bể nước,… Vậy 15% tổng thể tích sẽ tương đương với 7000m3, mà hơn 79 toa tàu hay 2,5 lần kích thước hồ bơi chuẩn Olympic.
Tôi biết rằng chúng ta đã thảo luận rất nhiều về các con số, kích thước và thể tích, vậy hãy tóm tắt lại. Xem xét về đánh giá cao nhất của 65,000 thú vật trên Tàu, chúng ta có thể dễ dàng sắp xếp tất cả các loài thú lên Tàu vào các ngăn dành riêng. Sự thật về chỗ ở thú vật của Con Tàu sẽ nằm đâu đó giữa cách so sánh vận chuyển ngắn hạn (với 15%) và cách so sánh nuôi nhốt dài hạn (với 85%). Nếu chúng ta phân biệt các sự khác nhau giữa hai viễn cảnh này, thì một tỉ lệ phần trăm chính xác hơn cho khoảng không gian của thú vật sẽ là 50% của toàn bộ Tàu. Vậy một cách ước lượng tốt sẽ là một nửa của Con Tàu được dành cho các bãi quây, chuồng và lồng thú, trong khi nửa còn lại của Tàu sẽ là các khu vực sinh hoạt cho Nô-ê và gia đình của ông và kho cho thực phẩm, nước và các yếu tố cần thiết khác.
Giờ thì mục đích của chúng ta là phải tập trung vào dữ liệu Kinh Thánh, để hiểu Sự Thật về Tàu của Nô-ê và để xua tan tất cả các sự thổi phồng và các quan điểm sai lầm. Như chúng ta đã thấy, đa số lời bình luận về Nô-ê và Con Tàu đều không có căn cứ, vì chúng phớt lờ những gì Kinh Thánh đã thật sự phác họa lên. Các chỉ dẫn của Đức Chúa Trời cho Nô-ê phác họa rõ ràng các loại đặc biệt của các loài thú mà sẽ lên Tàu và nói rằng Đức Chúa Trời sẽ mang chúng đến cho Nô-ê. Mặc cho những người hoài nghi tuyên bố rằng hàng triệu hay hàng trăm triệu các con thú cần phải có trên Tàu, nhưng cả ghi chép Kinh Thánh và dữ liệu khoa học chắc chắn chối bỏ một quan điểm như vậy. Con Tàu là một con thuyền rỗng rộng lớn với một sức chứa hoàn hảo đủ điều kiện cho hàng hóa quý giá mà nó mang.
Xuyên suốt toàn bộ tài liệu, rất quan trọng để chúng ta nhận ra vai trò của Đức Chúa Trời. Trong khi có rất nhiều trách nhiệm về vật chất mà Nô-ê được giao để hoàn thành, và Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Nô-ê đã làm “tất cả những gì mà Chúa truyền.” Đức Chúa Trời cũng phác thảo vai trò của Ngài trong trận lụt sắp xảy đến. Vì Đức Chúa Trời đã chọn Con Tàu như cách thức để cứu sự sống, và Đức Chúa Trời truyền đạt các chỉ dẫn xây dựng cho người thợ xây được chọn lựa của ngài – Nô-ê, và Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm cho việc đem đến các con thú thích hợp vào thời điểm được định. Vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng cấu trúc của Con Tàu là vững chãi, điều kiện để vượt biển của nó vượt mức so sánh, sức chứa của nó để sắp xếp các hành khách và hàng hóa hoàn toàn đủ.
Và, trong khi Nô-ê và gia đình của ông thức dậy mỗi ngày trong hơn một năm trên căn nhà trôi nổi của họ để sống, ăn uống và làm việc thì Kinh Thánh kể cho chúng ra rằng vai trò chăm lo của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục và rằng Ngài “nhớ đến Nô-ê, cùng các loài thú và súc vật ở trong tàu với người.”